Thứ Hai, 10 tháng 2, 2014

Người thuyền Việt Nam- Hành trình trên đất tư bản


 (Ghi lại theo lời kể của hai bô lão cựu thuyền nhân- con xin lỗi đã không xin phép khi công bố câu chuyện này trên thế giới mạng. Nhưng con cho rằng trải nghiệm của các bô lão rất đáng để giới trẻ suy ngẫm…)
Cũng phải ghi chú một chút để các tin tin hiểu bối cảnh khi xảy ra sự vụ: Khoảng thời gian của 30 năm trước, vượt biên là một chủ trương ngầm được bật đèn xanh từ Bê mình hẳn hoi (cái này không có trong sách giáo khoa, các bạn trẻ cần phải hỏi các bô lão thời thởi), và đây cũng là một nguồn thu đáng kể cho Bê đồng thời tiện thể tống cổ những thành phần xã hội không được hoan nghênh thời thởi như lý lịch gia đình đen ngòm vì có liên hệ gì đó tới chính quyền cũ, thành phần gốc Tàu trong những phong trào bài Tàu khi đó…

 Vấn đề thuyền nhân Việt Nam từ những năm cuối thập kỷ 70 là những đề tài thời sự nóng hổi trên các phương tiện truyền thông thế giới cho tới tận hơn hai chục năm sau đó.
Vợ chồng bô lão- nhân vật chính trong câu chuyện đều làm nghề giáo, khi đó họ mới có một cậu con trai 2 tuổi. Sau 75, ông vẫn làm giáo viên và được giao nhiệm vụ chấm thi đại học, và đương nhiên ông cũng được phổ biến chủ trương từ các cấp trên mình: “chấm sao là việc của các ông, đậu hay không là việc của chúng tôi…” . Ông đã tận mắt nhìn thấy những bài thi chưa cần được liếc qua về chất lượng, đã được khuyên một dấu mực đỏ: Không đậu. Lý do duy nhất trong các case này chỉ vì lý lịch của thí sinh đen ngòm: dân Thiên chúa giáo, hoặc có liên quan tới chế độ cũ, giống vợ chồng ông.
Ông kể lại: Không một bố mẹ nào dám an tâm khi nhìn thấy các cánh cửa bước vào tương lai của con cái mình bị đóng sầm lại như thế!
Và ông bà quyết định làm cuộc Thiên di vĩ đại nhất trong cuộc đời mình.
Hai ông bà lên ủy ban đàng hoàng nhé, không phải đi lén lút như mọi người vẫn tưởng đâu, trình bày nguyện vọng với lãnh đạo rằng thì là ông bà gốc Tàu (nhưng ít nhất 3-4 đời cụ, kỵ… ông bà đã sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này) cho nên ông bà xin phép được vượt biên, và đương nhiên lãnh đạo duyệt. Cùng với cả trăm người khác, ông bà đóng 3 cây vàng cho chính quyền để các đồng chí công an “bảo kê” cho chuyến đi không bị bắt bớ, và thêm 2 cây cho chủ thuyền ( số lượng: 2 vợ chồng+ 1 đứa con 2 tuổi).
Hành trình vượt biển của họ rất dài hơi, có thể kể ra thành những chương hồi đặc sắc trong một cuốn hồi ký của chính các bô lão: trải nghiệm về sự chật chội nóng bức khi cả vài trăm con người lèn đầy trên một con tàu gỗ thô sơ, say sóng, gặp cướp biển, gặp bão gió tới đắm thuyền, được cứu trợ bởi một giàn khoan của Mỹ ngoài biển khơi, bị từ chối tiếp nhận khi dạt vào 1 hòn đảo, rồi phải dùng tới kế tự làm đắm tàu thêm 1 lần nữa để chính quyền kia không thể trả lại họ ra ngoài biển, rồi trở thành trại viên trong 1 trại tỵ nạn. Tuy nhiên, đây không phải là phần chính trong ghi chép này.
Hồi hổi những năm 80, nếu may mắn không bỏ xác dưới biển do ngàn lẻ lý do như bị cướp biển giết, tai nạn, bị lính biên phòng bắn vỡ sọ… thì đảm bảo, các thuyền nhân sẽ có cơ hội  tuyệt đối 100% được tiếp nhận qua các nước giàu có qua các trung gian là trại tập trung tỵ nạn tại Hồng Hong, Thái, Mã, Indo… Và Thượng Đế cũng dẫn dắt gia đình bô lão tới được một trại tỵ nạn như vậy. Theo lời các bô lão kể lại, hầu hết thuyền nhân chỉ chọn 3 địa chỉ để tới là Mỹ, Úc, Canada… đơn giản chỉ vì, trên bản đồ, đó là những nước rất lớn. Những nước nhỏ như Thụy Sỹ, các nước châu Âu rất ít được quan tâm, đơn giản chỉ vì đó là… nước nhỏ, họ cho rằng cơ hội cho họ cũng vì thế mà nhỏ hơn!
Và bởi vậy, Thụy Sỹ đã phái hẳn một phái đoàn tới từng trại tỵ nạn, trưng bày hàng loạt hình ảnh về đất nước xinh đẹp này kèm theo những lời thuyết phục: Hãy tới nước tao đi, nước tao rất xinh đẹp hiền hòa, chính phủ giàu có, chúng tao sẽ lo cho những người định cư cuộc sống an toàn tới tận cuối đời.
Và cũng chỉ tới khi chờ dài cổ gần năm ròng mà vẫn chưa nghe phản hồi gì từ các “nước lớn”, mới có một số người đồng ý di cư qua Thụy Sỹ.
Chuyến bay của vợ chồng bô lão có tổng cộng chừng 100 người thuyền. Ngay khi tới sân bay, họ đã được thông báo các loại bảo hiểm cho họ đã được nhà nước mua sẵn, toàn bộ giấy tờ thủ tục của họ đã có người chờ sẵn ở sân bay lo liệu. Từ sân bay, họ được xe bus chở thẳng tới 1 trại dựng tạm để làm thủ tục… khử trùng (do khi đó phía Thụy rất lo ngại những dịch bệnh tràn lan trên các trại tỵ nạn sẽ xâm nhập vào đất nước họ, tuy nhiên sau vài năm do cộng đồng quốc tế có nhiều phản ứng tiêu cực mà bước này đã được bỏ qua). Tại đây, có các seur tình nguyện viên chờ sẵn. Từ người già tới trẻ con, bắt buộc phải vào các phòng tắm và họ không được tự tắm, các seur trẻ sẽ giúp gội đầu, tắm táp sát trùng cho phụ nữ và trẻ em, các seur già giúp các đấng mày râu còn lại, toàn bộ quần áo vật dụng mang theo của người thuyền đều được mang đi khử trùng.
Từ nơi trại khử trùng, đoàn người được đem tới một trung tâm nghỉ dưỡng tiện nghi rộng rãi, từ đây họ sẽ bắt đầu những bài học đầu tiên để thích nghi với cuộc sống mới. Nhiều lớp học được chia ra theo độ tuổi để hàng ngày họ được học những từ giao tiếp thiết yếu đầu tiên, chuyện ăn uống thì họ thu xếp 2 tình nguyện viên trong đoàn đứng ra nấu nướng món Việt để phù hợp với khẩu vị mọi người. Mỗi cuối tuần, cả đoàn lại được bố trí đi thăm thú các thành phố của Thụy, được hướng dẫn cách mua vé xe bus, tàu hỏa, cách đi siêu thị, hỏi mua đồ ăn nước uống… Nói chung, chu đáo không chê vào đâu được.
Sau 3 tháng ăn ở tập trung như vậy, những người thuyền đó được hỏi nguyện vọng muốn định cư ở nơi nào trong 3 cùng Thụy Đức, Thụy Ý, Thụy Pháp để chính phủ tìm nhà cho, rồi chiểu theo yêu cầu của họ mà họ được phân chia ra các vùng kể trên.
Vợ chồng bô lão và cậu con trai được đưa về một căn hộ chung cư tại vùng Thụy nửa Đức- nửa Pháp theo nguyện vọng. Nữ bô lão vẫn nhớ ngày hôm đó, khi chiếc xe đưa gia đình họ bước vào căn nhà ấm cúng, đã có sẵn 4 người phụ nữ chờ sẵn ở nhà. Đó là những người dân sống quanh đó, được kêu gọi để trở thành tình nguyện viên giúp đỡ những người thuyền hòa nhập cộng đồng. Họ chia nhau nhiệm vụ cụ thể: Người giúp lo hướng dẫn người thuyền chuyện đi chợ, bắt tàu xe, tìm hiểu môi trường sống chung quanh. Người giúp lo chuyện trường lớp, học hành cho mi-ni. Người sẽ phụ trách chuyện tìm trường lớp, liên hệ công việc, và người  sẽ lo giúp chuyện điều tiết chi phí sinh hoạt cho tới khi những người thuyền mới tới có thể tự tin tự làm mọi việc. Các bô lão khi đó vẫn tưởng mình đang nằm mơ khi trong nhà có sẵn sàng đầy đủ vật dụng từ cái giường cái tủ, từ chiếc nồi cái chén, tất cả mọi thứ thiết yếu cho cuộc sống gia đình…. Những tình nguyện viên còn mở tủ ra cho họ thấy một số quần áo cho cả nhà cũng đã được chuẩn bị sẵn sang, và bữa ăn đầu tiên trong căn nhà mới cũng chính là các tình nguyện viên này chuẩn bị giúp họ.
Bô lão kể rằng khi đó tràn ngập trên những phương tiện truyền thông là hình ảnh những con thuyền thô sơ chen chúc những người vượt biển, đánh cược sinh mạng mình đi tìm miền đất hứa. Rồi cuộc sống tù túng, thiếu tiện nghi trong các trại tỵ nạn… Bởi vậy, trong con mắt cư dân bản địa, những người thuyền này thực sự rất dũng cảm và đáng thương, và khi đó người Việt sống trên đất Thụy cũng hết sức hiếm hoi, bởi vậy những tháng ngày đầu tiên họ đã nhận được những sự quan tâm nồng ấm của dân bản địa. Hầu như mỗi ngày họ đều nhận được những món quà từ những người hàng xóm xung quanh, từ chiếc bánh nướng cho tới những bộ quần áo cũ, những món đồ chơi cho con nít. Trên những chiếc xe bus, khi biết rằng họ là những người thuyền, có những người bản địa còn móc bóp và dúi vào tay họ một món tiền như là một hành động cảm thông, chia sẻ. Đây hầu như là một giai đoạn hoàng kim của những di dân người Việt thế hệ đầu trên đất Thụy.
Để giúp họ hội nhập nhanh nhất vào xã hội mới, chính phủ Thụy tài trợ cho họ đi học tiếng trong suốt 1 năm và tiếp theo, lựa chọn một nghành nghề để học tiếp hoặc họ có thể chọn đi làm. Chi phí sinh hoạt trong suốt những quãng thời gian đó là điều hoàn toàn không cần lo lắng. Thời gian này xứ Thụy cũng có rất ít di dân nên cơ hội công việc cũng rất nhiều cho họ lựa chọn, và những người thuyền đang là tâm điểm quan tâm của toàn xã hội lại càng lắm cơ hội hơn. Bô lão cũng quyết định dành thời gian học tiếng, rồi thêm 1 năm nữa học nghề điện tử để xin làm việc trong 1 hãng xưởng.
Không biết quy chế dành cho các người thuyền tại các nước khác thế nào, chứ những người thuyền trên đất Thụy được thừa hưởng mọi đặc quyền mà bất cứ một di dân nào cũng phải thèm muốn. Họ được chính phủ cam kết cho thường trú tới trọn đời, ngay cả khi họ vi phạm luật pháp nghiệm trọng thì chính phủ Thụy cũng không thể tự ý trục xuất họ ra khỏi lãnh thổ nếu như không có sự cho phép từ Liên Hiệp Quốc, và họ sẽ được đảm bảo chi phí sinh hoạt tối thiểu theo ba-rem của dân bản địa tới trọn đời. Ví dụ, theo mức chuẩn của Thụy từ những năm đó, chi phí sinh hoạt cho gia đình 4 người sẽ có mức thấp nhất là 4 ngàn CHF (bao gồm cả nhà cửa, thức ăn, bảo hiểm các cái. Đương nhiên đây là mức theo tiêu chuẩn tây, với cách sống tính toán tiết kiệm của người Việt thì mức tối thiểu cũng luôn đủ dư để trợ giúp bên nhà…). Chiểu theo mức này, nếu người thuyền thất nghiệp họ sẽ nhận được đầy đủ 4 ngàn để duy trì cuộc sống gia đình, nếu họ kiếm được ít hơn họ có quyền được nhận thêm từ chính phủ cho bằng mức đó, và nếu họ kiếm được nhiều hơn thì đương nhiên họ có quyền giữ lại. Cuộc sống bỗng chốc như trong mơ, nữ bô lão nói suốt nhiều tháng đầu tiên sống trên đất Thụy, bà toàn nằm mơ thấy ác mộng là phải bị buộc quay về nhà để rồi tỉnh giấc cứ bàng hoàng, bàng hoàng…
Người Việt vốn được tiếng khôn khéo, nhanh nhạy nên họ bắt vào cuộc sống mới khá dễ, nhất là với những trợ giúp đáng kể từ chính phủ và cộng đồng bản địa như đã nói ở trên. Chỉ tiếc rằng, với thời gian, một bộ phận những con người khôn mà không ngoan đã bắt đầu những hành động để tự đẩy mình xa hơn với đất nước, cộng đồng đã giang tay cưu mang họ. Một số người thuyền phát hiện ra rằng mình đi cày cực khổ rồi cũng chỉ kiếm được bằng số tiền mà ở không họ cũng có quyền được hưởng, và rồi họ từ chối mọi công việc mà nhân viên xã hội tìm giúp cho để nằm nhà ăn lương chờ trợ cấp. Nhiều người vẫn ăn trợ cấp thất nghiệp nhưng lại có những nguồn thu không nhỏ từ nghề bỏ mối hàng, đi làm chui. Có cả những cặp vợ chồng thuyền nhân còn đẩy mức sáng tạo hơn là… ra tòa li hôn giả, ban ngày thuê nhà ở riêng rồi tối đến lại về ngủ cùng với nhau, hòng  ăn trợ cấp dành cho 2 gia đình. Những sáng kiến kiếm tiền từ tư bản cứ thế được phát huy, và tiếp tục nhân rộng hơn cho những đợt di cư của người thuyền kế tiếp.
Bô lão kể rằng, chỉ một thời gian ngắn sau đó, những câu chuyện về lối cư xử không giống ai của một bộ phận người thuyền càng ngày càng được cư dân bản địa truyền tai nhau nhiều hơn. Những ruộng trái cây, hoa màu… của cư dân bản địa vốn dĩ có truyền thống kinh doanh dựa vào sự tự trọng của con người từ hàng trăm năm bằng cách đến kỳ thu hoạch, một người dân bất kỳ có thể đến ruộng thu hái theo nhu cầu họ cần rồi tự động bỏ số tiền họ cho là tương xứng vào 1 cái hộp tại ruộng, không cần tới sự giám sát của người khác. Nhưng, có những người thuyền đánh cả xe vào thu hái hàng bao tải bắp tươi , rau xanh… mà chẳng bao giờ để lại đồng nào. Những cách sinh hoạt nơi công cộng thiếu ý thức, xa lạ với cách cư xử của người bản địa mỗi lúc một nhiều hơn. Rồi, vì ý thức được đặc quyền đặc lợi trong việc cư trú tại đây, họ lại có thêm những hành xử kỳ quặc: số tiền nhận tài trợ từ chính phủ, họ ăn xài bài bạc sạch trơn tới mức nợ luôn tiền thuê nhà. Khi người nhân viên xã hội phụ trách tài chính chất vấn về chuyện này, nhân vật thuyền nhân còn đe dọa hành hung luôn người phụ trách giúp đỡ mình, và sau rốt thì chính phủ phải chọn phương án trừ thẳng tiền nhà hàng tháng của thuyền nhân vào trong số tiền được trợ cấp.
Ngày mỗi ngày, những câu chuyện như vậy lại càng được truyền tai nhau nhiều hơn, và một bộ phận những cư dân bản địa đã bắt đầu có cáo nhìn tiêu cực đối với những người mà trước đây họ rất thông cảm. Nhà nước cũng sớm nhận ra những bất cập trong chủ trương cưu mang người thuyền, và dần dần chính sách nhập cư cho người tỵ nạn cũng xiết chặt lại. Ngay cả trong nội bộ cộng đồng di dân người thuyền, những người sống tự trọng bằng công sức của họ đã bắt đầu chủ động xa lánh hoặc dè dặt tiếp xúc với bộ phận tai tiếng kia, cho tới tận bây giờ…
Bạn thân mến, có thể câu chuyện tôi ghi chép tại đây sẽ động chạm tới không ít người đọc, nhưng tôi khẳng định ghi chép của tôi qua câu chuyện với các bô lão có thể chỉ thiếu thông tin, chứ tuyệt đối không thừa và không hề có một sáng tác hoặc thêm mắm dặm muối nào làm sai lệch nội dung. Tôi mới tới đất Thụy được 7 tháng, trải nghiệm cuộc sống của tôi tại đây chưa có gì để kể, nhưng tôi luôn tranh thủ tìm hiểu cuộc sống qua những người đi trước để tìm ra câu trả lời về sự thành công, thất bại của họ để học hỏi, để tránh những vết xe đổ của tiền nhân…
Và thỉnh thoảng, trên các diễn đàn, tôi vẫn nghe nhiều chị em buồn phiền khi ngày hôm đó đã gặp phải một cái nhìn, một thái độ kỳ thị ra mặt. Đó không phải lỗi của chúng ta. Nhưng, bỏ qua những lý do như sự định kiến chủng tộc, những lý do xã hội như cách hành xử không giống ai của một số người trong cộng đồng chúng ta hay việc họ kỳ thị chúng ta do cạnh tranh công việc, thì chúng ta cũng đang phải gánh trách nhiệm cho những hành động kiểu người nguyên thủy trong xã hội hiện đại của một bộ phận di dân từ những thế hệ trước. Có thể nói như kiểu dân gian mình: Con sâu làm rầu nồi canh, hay đời cha ăn mặn đời con khát nước (mặc dù cha đẻ mình chẳng bao giờ làm mình phải khát nước như thế)…
Để nhắc nhở mình cố gắng sống làm sao để được nhìn nhận như một công dân bình thường trong xã hội mới này!



2 nhận xét: